Viêm kết giác mạc bọng - Phlyctenular Keratoconjunctivitis
Viêm kết giác mạc bọng
Khái niệm:
- Đó là một phản ứng dị ứng của kết mạc gây ra bởi độc tố vi khuẩn nội sinh và đặc trưng bởi sự hình thành nốt hoặc bọng gần rìa giác mạc.
- Phlycten có nghĩa là một bleb – bọng.
- Về mặt mô bệnh học, bọng chứa 1 khối đặc các tế bào lympho đơn nhân và đa hình bên dưới lớp biểu mô.
Nguyên nhân:
- Tuổi: Trẻ em từ 4–14 tuổi
- Tình trạng vệ sinh kém và suy dinh dưỡng
- Độc tố nội sinh, như:
- Tuberculoprotein
- Độc tố từ Staphylococcus / Streptococcus (từ viêm amidan hoặc viêm họng hạch do adeno virus)
- Độc tố từ ký sinh trùng đường ruột
Phân loại theo lâm sàng:
- Viêm kết mạc bọng: Khi đơn thuần liên quan đến kết mạc
- Viêm kết giác mạc bọng: Khi bọng ở rìa, và liên quan đến cả kết mạc và giác mạc.
- Viêm giác mạc bọng: Khi đơn thuần liên quan đến giác mạc (hiếm gặp).
Triệu chứng:
- Kế mạc cương tụ với sự hình thành của bọng
- Kích thích và chảy nước mắt
- Đau và sợ ánh sáng khi có liên quan đến giác mạc.
Dấu hiệu:
- Một hoặc nhiều nốt nhỏ, tròn và nổi lên tại, hoặc gần rìa. Chúng có màu xám hoặc trắng hồng và đường kính 1–3 mm.
- Cương tụ khu trú xung quanh nốt sần.
- Không có ghèn dử mắt.
- Nếu có nhiễm trùng thứ cấp, kết mạc cương tụ toàn bộ, tiết tố nhày mủ.
- Có thể liên quan đến sưng hạch vùng cổ, viêm amidan hoặc viêm họng hạch do adeno virus.
Tiến triển:
Đầu tiên là một giai đoạn mụn nước thực sự → biểu mô trở nên hoại tử → các vết loét nhỏ được hình thành → quá trình liền ổ loét xảy ra không để lại sẹo.
Biến chứng:
Chúng chủ yếu do có liên quan đến giác mạc tuy nhiên không phổ biến
- Viêm giác mạc bọng
- Loét chùm
- Xơ mạch lớp nông quanh bọng
- Loét vòng (loét dị ứng thường không thủng, trừ khi bị nhiễm trùng thứ cấp).
Viêm giác mạc bọng:
Mặc dù bọng thường được tìm thấy ở rìa, chúng cũng có thể xảy ra trên bề mặt giác mạc sát rìa. Giống như viêm kết mạc bọng, nó chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em.
Bệnh học:
- Một nốt điển hình được hình thành trên màng Bowman với biểu mô liền kề, như thâm nhiễm tế bào lympho khu trú.
- Biểu mô dễ dàng bị phá hủy và loét bọng được hình thành.
- Bề mặt đã bị bong dễ dàng bị nhiễm trùng, thường là do tụ cầu.
- Khi nhiều bọng phát triển ở rìa giác mạc, các mạch máu từ rìa phát triển về phía các nốt, bọng, do đó tạo ra xơ mạch quanh bọng.
Đặc điểm lâm sàng:
- Triệu chứng: bao gồm đau, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và co thắt mí mắt.
- Tiết tố nhầy mủ khi có nhiễm trùng thứ cấp.
- Bọng giác mạc là một nốt màu xám, hơi nhô lên trên bề mặt và vết loét có màu vàng.
- Nó có thể tự khỏi, hoặc có thể lan rộng xung quanh và vào giác mạc.
- Rất hiếm khi, nó có thể làm phát sinh loét và thủng nghiêm trọng.
Biến chứng:
Loét chùm: Đôi khi, loét bọng từ từ di chuyển từ rìa về phía trung tâm giác mạc theo cách của bệnh vảy nến (tổn thương lành tại chỗ và lan sang bên cạnh). Nó mang theo các mạch máu đan vào nhau như vòng xích, nằm trong một rãnh nông được hình thành bởi vết loét. Nó là một loại loét dị ứng bề ngoài, không bao giờ thấm thủng. Khi vết loét lành, các mạch máu mỏng đi với sự hình thành vùng mờ giác mạc dày đặc nhất ở đỉnh của nó.
Loét vòng: Nó được hình thành bởi nhiều bọng kết hợp với nhau ở ngoại vi giác mạc. Nó có thể dẫn đến hoại tử hoàn toàn giác mạc.
Xơ mạch bọng: Nó thường gặp hơn khi tổn thương có nhiều bọng.
Thủng giác mạc: Nó có thể xảy ra đặc biệt là khi bị nhiễm trùng thứ phát. Nguồn tư liệu: Basak-Essentials of Ophthalmology.
Nguồn ảnh: cornea_tales
Nguyên văn tiếng Anh: Facebook